CỦA NGUYỄN MINH NỮU
Văn
hào nước Anh G.K. Chesterton (1874 – 1936) tương truyền có câu: “Văn học là một
món xa xỉ – hư cấu là một điều thiết thực.” Nguyên văn câu tiếng Anh –
“Literature is a luxury; fiction is a necessity.” – lời văn ngắn gọn, lướt qua
có vẻ đơn giản, nhưng kỳ thực bao hàm cả một thế giới quan, một triết lý sống.
Để dịch ra tiếng Việt mà truyền tải hết ý nghĩa của câu văn lại càng không dễ
dàng – chúng ta, những người cầm bút viết văn tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ, mới
chỉ sử dụng và nhìn nhận thế giới qua những khái niệm văn học, hư cấu, v.v...
này non nớt hai trăm năm qua. Tức là buổi gặp gỡ không tiền khoáng hậu của hai
thế giới Âu châu và Đông Á vào thế kỷ 19, mà kết quả là sự phát triển đột biến
của ngôn ngữ và tư duy các nước Đông Á nằm trong khuôn văn hóa Hán tự – tức là
những vùng nước sử dụng chữ Hán – thông qua các bản dịch tân thư của học giả Nhật
Bổn thời Minh Trị. Tân thư 新書là tên gọi chung của các
sách Tây phương được dịch ra Hán văn và Nhật văn – trong tân thư có cái gọi là
tân danh từ 新名詞, tức là những từ vựng
chuyên môn dịch ra từ các môn học thuật và văn hóa Tây phương. Tân danh từ đa
phần không phải do các dịch giả thế kỷ 19 tự sáng tạo, mà là do họ tìm những từ
ngữ có sẵn trong kinh điển, có sẵn trong thơ văn các triều đại rồi mượn làm từ
vựng để dịch một khái niệm Tây phương nào đó.
Kết quả của sự vay mượn này thường có hai xu hướng – một là sự thu hẹp ý nghĩa của những khái niệm vốn đa nghĩa và trừu tượng thành một tân danh từ tương đối hạn hẹp. Từ văn học 文學 chẳng hạn, vốn mang một nghĩa là sự tu dưỡng của văn chương 文章, mà văn chương lại có nghĩa rất rộng bao hàm cả đức hạnh, lễ nhạc, pháp độ. Từ thời Tiền Tần xuyên suốt lịch sử các triều đại, cổ nhân dùng chữ văn học, chữ văn chương để nói nhiều thứ mà không nhất thiết đã liên quan chủ yếu đến việc viết lách, ra đời tác phẩm. Đương nhiên, ở thời cổ đại và trung đại văn học và văn chương – trong một số bối cảnh và theo một cách hiểu hạn hẹp, vẫn có liên quan gì đó đến cái mà sau này chúng ta gọi là văn học, văn chương. Tuy nhiên, từ thế kỷ 19 trở đi, khi văn học và văn chương đã được mượn để dịch khái niệm literature của Tây phương, khái niệm văn học và văn chương của chúng ta bị thu gọn lại và nghèo nàn đi, cái nghĩa hạn hẹp trước kia bấy giờ đã trở nên nghĩa duy nhất – trừ phi là người chuyên về cổ học, làm việc với kinh điển và cổ văn, hầu như chẳng còn ai liên hệ văn học với đức hạnh hay lễ nhạc, chẳng còn ai hình dung được một thứ văn chương mà không liên quan đến sách vở, xuất bản, hay độc giả.
Xu hướng thứ nhì, khi mượn chữ nghĩa trong kinh điển làm tân danh từ, là mở rộng và cố định hóa ý nghĩa của một từ nào đó có thể chỉ được sử dụng rải rác trong kinh điển và trước kia không hề mang tính thuật ngữ, thế rồi mượn từ này để làm một tân danh từ mang tính chính thức và phổ thông. Từ hư cấu 虛構 là một ví dụ điển hình cho hiện tượng này – hai chữ hư cấu đã xuất hiện rải rác trong thơ văn thời Hán và Nam Triều như trong bài Vũ quân phú 武軍賦 của Trần Lâm 陳琳 (? – 217) với nghĩa là “xây dựng trên không trung”, hay trong Hậu Hán thư 後漢書 của Phạm Diệp 范曄 (398 – 445) với nghĩa là “không căn cứ mà tưởng tượng ra”, nhưng hư cấu ở đây không phải thuật ngữ, lại càng không phải một phạm trù hay lý thuyết sáng tác văn học. Ngày nay, từ hư cấu đã đi vào tiếng Việt phổ thông với tư cách một thuật ngữ nói về thể loại văn học tương phản với văn học tả thực, tâm thái của độc giả hiện đại cũng dần dần bị chia đôi theo thế giới quan nhị phân đối lập chặt chẽ giữa tả thực và hư cấu.
Xin trở lại danh ngôn của G.K. Chesterton. Dùng chữ văn học để dịch chữ literature hầu như đã không có lựa chọn khác, coi như tạm được. Thế còn chữ fiction kia thì sao? Chữ hư cấu hơi mang sắc thái tiêu cực, trong khi câu nói của Chesterton đề cao giá trị của hư cấu còn trên cả văn học. Trong tiếng Việt đương đại, chúng ta còn một số từ vựng gốc Hán để lựa chọn khi dịch chữ fiction – giả tưởng 假想, viễn tưởng 遠想, chẳng hạn. Những từ này có thể xem như là tân danh từ của riêng người Việt, tuy có trong tiếng Trung đương đại, nhưng không được sử dụng như thuật ngữ để miêu tả khái niệm văn học hư cấu. Tuy nhiên, sắc thái của hai từ này lại càng không thích hợp để dịch câu nói của Chesterton.
Tôi cho rằng, sự khó khăn tôi gặp phải khi dịch câu này ra tiếng Việt, chỉ nằm một phần ở sự bất cập của cá nhân tôi – còn lại phản ánh một vấn đề lịch sử vẫn còn tiềm ẩn trong cách chúng ta – những người Việt Nam cầm bút và viết văn ở đầu thế kỷ 21 – nhìn nhận văn học. Căn bản, chúng ta chưa có thói quen phân biệt rạch ròi giữa văn tả thực và văn hư cấu. Điều này chưa chắc đã là đặc điểm gì của tác giả và độc giả Việt Nam và Đông Á, nhưng cứ tạm lấy văn học Trung Quốc và Việt Nam làm ví dụ. Hồng Mại 洪邁 (1123 – 1202) đời Tống nổi tiếng với Di kiên chí 夷堅志 hay Bồ Tùng Linh 蒲松齡 (1640 – 1715) đời Thanh nổi tiếng với Liêu trai chí dị 聊齋志異 đều là những tác giả và tác phẩm tầm cỡ, có vị trí trong văn học sử Đông Á. Hai tác phẩm này của họ đều ghi chép những câu chuyện ly kỳ liên quan đến hồ ly, quỷ quái, ma phật – những thứ mà ngày nay chúng ta nhất loạt quy vào thể loại văn học hư cấu. Đồng thời, họ đều khẳng định họ chỉ chép lại những chuyện tai nghe mắt thấy, lại miêu tả rất mực chi tiết về tên tuổi, quê quán, chức tước của nhân vật, về thời điểm, địa điểm, hoàn cảnh của sự kiện, về phản ứng và dư luận của người đương thời, v.v... Đến nỗi, trong học giới ngày nay Di kiên chí của Hồng Mại được tham khảo và trích dẫn như một nguồn tài liệu có thể nói lên nhiều điều về kinh tế và xã hội đời Tống.
Phải chăng cổ nhân đã nhạy cảm với những dòng chân lý huyền bí tiềm ẩn sâu trong vũ trụ, mà chúng ta – những kẻ sinh sau đẻ muộn trong buổi mạt đại này – đã bị chai cứng, không còn cảm nhận rõ rệt được nữa? Phải chăng chúng ta bị quản thúc trong chính những hạn chế trắng đen chúng ta tự đặt ra và đặt tên cho gông cùm mình những danh hiệu mỹ miều như “khoa học”, “khách quan”, “duy vật”? Tôi nghĩ, cổ nhân không phải không biết điều này – ngược lại, cổ nhân đã thấy trước ngõ cụt của lối suy nghĩ, lối sống hạn hẹp này. Chính vì thế, bên cạnh những chân lý của khoa học, những chân lý của minh triết, họ đã không khước từ những dòng chân lý khác – chân lý của ngụ ngôn, chân lý của nghịch lý, chân lý của những điều nằm ngoài kinh nghiệm và ngôn ngữ thường nhật của con người. Hoặc, nói như Chesterton là chân lý và sự thiết thực của hư cấu.
Trong chừng mực nào đó
Giữa hiu quạnh đời người
Có một dòng sông nhỏ
Chảy êm đềm xa xôi
Thương lắm đó khoảng trời xanh bất biến
Độc giả chớ để khoảng trời xanh bất biến ấy ru ngủ mình bằng giọng văn trữ tình êm đềm của tác giả. Tôi không lấy làm lạ khi Nguyễn Minh Nữu đã chọn thể truyện để lập thân trên văn đàn. Thể truyện 傳 đối với các nhà cầm bút Đông Á xưa nay là nơi trú ẩn cuối cùng của kẻ sĩ cùng đường, hoặc bất mãn thế sự, hoặc lận đận quan trường, hoặc đơn giản đã trải qua quá nhiều, tuổi già tưởng lui về vui thú điền viên, mà bên lòng còn khắc khoải mãi những niềm riêng từ thủa nào xa xưa. Với đa phần tác giả và độc giả ngày nay, khi nói đến thể truyện, họ sẽ mặc nhiên cho rằng viết truyện là viết hư cấu, tưởng tượng ra mà viết. Hoặc giả, cho dù cốt truyện dựa trên sự thật, song phần tưởng tượng, thêm thắt vào mới là phần chính, khiến cho truyện ấy sinh sắc, nổi bật. Ngược lại, thể truyện trong văn học cổ điển, cũng như các thể loại văn chương cổ điển khác, hầu như không phân biệt rõ rệt giữa tả thực và hư cấu – cũng như sự vô cùng phức tạp của đời sống thật, vốn không thể tách rời từng manh mối gọn gàng, thể truyện cổ điển là nơi gặp gỡ và xen lẫn của cái chúng ta khiên cưỡng gọi là sự thật và tưởng tượng.
Trong tập truyện của Nguyễn Minh Nữu, số truyện đậm mùi hư cấu không nhiều – có thể kể đến ba truyện Thuồng luồng mắt biếc, Con trai của thủy thần, Hảo hán cuối cùng tiêu biểu cho dòng sáng tác mang tính thiên về hư cấu của Nguyễn Minh Nữu. Tuy không phải dòng sáng tác chủ đạo của tác giả, tôi nghĩ sự hiện diện của ba truyện này trong tập truyện của Nguyễn Minh Nữu cũng nói lên đôi điều về tác giả. Truyện thần tiên tôi cho rằng đại loại chỉ xuất hiện trong sáng tác của hai lứa tác giả – tuổi trẻ và lão thành. Tuổi trẻ và lão thành ở đây không nhất thiết căn cứ vào tuổi tác niên kỷ của tác giả, mà là một trạng thái, một cảnh giới tâm hồn. Dù biết dòng truyện này xuất hiện muộn trong sáng tác của tác giả, không hiểu vì đâu tôi đọc lại thấy nét bút hãy còn trẻ trung và mơ mộng lắm:
Cô gái ngước mặt lên, khuôn mặt trắng hồng và đôi mắt to đen ngạc nhiên.
(Con trai của thủy thần)
… (Một thoáng mây phiêu bạc)
Thắp nén nhang thơm ở giữa đồi
Nghe lòng thương nhớ đã trùng khơi
Xa trong cõi khác người quay lại
Rộng lượng Ba Vì, mây trắng thôi.
Xin quỳ để thấy xót xa nguôi
Ai xui chim Việt về Nam nhỉ
Bốn chục năm trường nhạn lẻ đôi.
(Mênh mông trời Bất Bạt)
Với những người khó tính thì Saigon chỉ là thành phố với 11 quận ngày xưa. Nhưng với tôi, Saigon không chỉ có vậy, mà bao quát hơn nhiều, chẳng những bao gồm 19 quận nội thành, 5 huyện ngoại thành như nghị định năm 2003 của chính phủ, mà còn kể thêm rất nhiều tỉnh, thành phố chung quanh từ phía bắc như Bình Long, Biên Hòa xuống tận cực nam như Rạch Giá, Cà Mau... Ở đâu đó, mọi người có thể nói quê quán là một địa danh xa xa như Mỹ Tho, Bình Chánh, nhưng trong nỗi nhớ thì lại mênh mông là nhớ Saigon.
(Khu Nancy ở Saigon)
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, niềm vui từ thủa thanh niên là cà phê, là thuốc lá, là bia rượu và là hào sảng ngân dài một câu vọng cổ.
(Hà Nội thứ tư)
Chỉ
một câu thế mà đã bảo tồn được những nét phong lưu một thời của cộng đồng di cư
1954, thường dù vẫn giữ nếp riêng của các truyền thống văn hóa Bắc Hà, nhưng lại
hồn nhiên đón nhận và yêu lấy những nét văn hóa bình dân của miền Nam, mà kết
quả là một sự duyên dáng ngộ nghĩnh và dễ thương của riêng cộng đồng và giai đoạn
lịch sử ấy, sau này hầu như không còn tái lập được nữa. Nghĩ đến nhân vật dòng
dõi thư hương Thăng Long, mà thứ ẩm liệu trong chén tiêu sầu kia không phải là
chè mà lại là cà phê sữa, câu khiển muộn nọ không phải là Kiều mà lại là vọng cổ,
tôi bất chợt nhận ra hình ảnh của thân thế và lai lịch cá nhân tôi. Tôi cũng
sinh trưởng trong gia tộc Bắc 1954, từ bé dù trong nhà vẫn nói tiếng Bắc, nhưng
– một cách không thể giải thích được –
trong khá nhiều trường hợp lại sử dụng từ vựng của tiếng Nam, thậm chí
vô ý trung lại phát âm theo tiếng Nam. Cho dù khi ở với người gốc Nam thuần túy
thường bị bạn bè và người thân quen quy là người Bắc nói giọng Bắc, phải đến
sau này tôi lớn lên và ra Hà Nội, tôi mới nhận ra rõ rệt, từ văn hóa đến tiếng
nói câu chào, quả thực tôi là con lai của hai miền Nam Bắc.
Những
sự “gặp gỡ” ấy trong truyện Nguyễn Minh Nữu không phải chỉ dành riêng cho một đối
tượng độc giả hạn hẹp trong cộng đồng di cư và hải ngoại của tác giả, mà còn
dành cho nhiều người nữa. Riêng truyện Hà Nội Thứ Tư, khi tôi gửi bạn bè và đồng
nghiệp hải nội – trong đó đa phần nếu không phải là người Hà Nội, thì cũng là
người Bắc, có cả những người cán bộ, những người sinh trưởng sau chiến tranh
mà, một cách hoàn toàn có thể thông cảm được, nặng lòng và tự hào về thân thế
và lai lịch của riêng họ – nhiều người đã sửng sốt bày tỏ mối đồng cảm sâu sắc
với nỗi lòng của tác giả. Họ đã nhận ra nơi Nguyễn Minh Nữu một người tri kỷ thật
sự yêu Hà Nội, yêu miền Bắc, không khác mấy tình yêu và niềm tự hào chính họ vẫn
luôn dành cho quê hương, dù lắm khi không thổ lộ được một cách chân tình. Đọc
truyện Nguyễn Minh Nữu, một độc giả Hà thành trong học giới hải nội đã chia sẻ
rất mực cảm khái: “Hà Nội thứ nhất đã chết. Hà Nội thứ hai và thứ ba không phải
là Hà Nội. Hà Nội thứ tư – có thì có đấy, nhưng tiếc là không dễ nhìn ra và một
ngày càng một thêm mờ… Xin cảm ơn câu truyện, mà có lẽ là phần thật ít nhất chiếm
tới 90%, và cũng xin chia sẻ với nỗi lòng tác giả…”. Phản ứng này – sự hoang
mang trước một câu truyện tưởng hư cấu mà lại thiết thực hơn cả hiện thực –
không phải phản ứng của riêng người độc giả này, mà còn là phản ứng chung của rất
nhiều độc giả hải nội khi đọc Hà Nội Thứ Tư. Còn nhớ, khi tôi gửi truyện này
cho một cô hồng nhan tri kỷ xứ Ái Châu, con nhà danh gia đương triều, thuộc
thành phần tri thức trẻ sinh ra và lớn lên sau 1975, tuy tự hào về gốc gác gia
đình, nhưng vẫn luôn rộng rãi và mong được hiểu biết hơn và thông cảm với những
người “bên kia cuộc”, cô ta đã ngạc nhiên hỏi lại tôi: “Đan, đây là truyện hay
là ký? Đan nói từ đầu là truyện, mà tôi đọc sao thấy lại chân thực một cách phi
hư cấu…”
Tôi quen và đọc Nguyễn Minh Nữu chưa đầy nửa năm – tuy nhiên sự gặp gỡ ấy, kể cả về con người ngoài đời, lẫn con người qua tác phẩm, kể cả khi đọc tác phẩm qua tác phẩm, lẫn cả khi đọc tác phẩm qua tác giả, tôi đã cảm kích trước mối tri âm nhất kiến như cố, mới gặp đã như cố nhân. Không những thế, tôi thậm chí chỉ là một người hậu sinh đến với văn thơ của Nguyễn Minh Nữu như một đứa trẻ đến trường tựu học, mà sự học ở đây không đơn thuần chỉ là học vẹt những mẹo ráp câu điền chữ cho ra một bài văn chương hoa lệ. Điều tôi học ở Nguyễn Minh Nữu là sự cẩn trọng khi cầm bút, sự tinh tế trong việc cảm nhận, và sự bao dung và yêu thương dành cho con người – kể cả những người quen biết được tác giả đưa vào văn chương, lẫn những người độc giả chưa quen biết mà tác giả đã nghĩ ngợi từ trước, để khi chấp bút sẽ không gieo mầm chia rẽ và đau thương bằng những lời bất cẩn và thiếu suy nghĩ. Tôi phải thú thật, rằng không phải tôi vừa mới đọc Nguyễn Minh Nữu lần đầu tiên là hiểu được hết những điều này. Cũng chưa chắc là đọc đến lần thứ nhì, lần thứ ba là đã hiểu. Chỉ khi tôi đọc Nguyễn Minh Nữu không phải để đọc văn chương, mà để soi gương những khúc mắc và trăn trở trong chính đời sống tôi, dần dần tôi mới nhận ra và đồng cảm sâu sắc, đôi khi là sâu sắc ngoài khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Tập truyện Thuồng Luồng Mắt Biếc này sẽ xuất hiện trên văn đàn hải ngoại vào năm 2021 một cách lặng lẽ và khiêm nhường đúng bản chất tác giả và tác phẩm. Trong đây có những truyện đã đăng báo và xuất bản từ khi Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn là một quốc gia ở miền Nam Việt Nam. Có những truyện đã được viết ra trong thời gian cách ly giữa cơn khủng hoảng của đại dịch Vũ Hán năm 2020. Nơi đây đã gồm đủ sự nghiệp trăm năm của một nhà văn đã đi suốt hành trình của lịch sử đất nước và nhân loại thế kỷ 20, 21. Điều này, chưa chắc tác giả đã muốn phô trương hay thể hiện với độc giả, cũng chưa chắc là phần tôi cần phải phân tích để thuyết phục bất cứ ai. Tốt hơn, chúng ta hãy cố gắng làm quen lắng nghe trở lại, làm quen tin tưởng trở lại, làm quen nhạy cảm trở lại, để rồi, một ngày nào đó, chúng ta có thể cùng Nguyễn Minh Nữu:
Về ngồi đây cạnh nhau thôi
Mà nghe rộng suốt một đời cho nhau...
(Lời chào năm mới)
Việt
Thạch Nguyễn Thụy Đan
Placerville, Tiết Tiểu Mãn, Tháng 5/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét