Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2023

NGUYỄN MINH NỮU, THƯƠNG QUÁ SAIGON NGÀY TRỞ LAI 1+2+3, BÚT KÝ.


 

THƯƠNG QUÁ SAIGON NGÀY TRỞ LẠI.

(chương 1,2,3)

 

01.

Ngay trong đêm, tôi gửi tin nhắn đến Đoàn Văn Khánh: ""Về tới Sài Gòn rồi, mai gặp nhau uống cà phê".

Bây giờ là 11:30 đêm. Tôi nghĩ  lúc 4 giờ sáng thức dậy để đi bộ tập thể dục, Khánh sẽ nhận được tin nhắn của tôi. Đêm đầu tiên về tới Sài Gòn tôi không ngủ được. Chắc chẳng phải riêng tôi. Những người xa xứ về quê khó tìm được giấc ngủ; một phần vì khác biệt về giờ giấc, một phần vì nôn nao trong lòng khi nghĩ tới các cuộc gặp gỡ sắp tới.

Nằm mơ mơ màng màng chút xíu, thấy có tin nhắn của Đoàn Văn Khánh: "Khi ngủ dậy thì gọi nhé". Tôi nhìn đồng hồ, 5:15 sáng. Tôi bấm máy gọi cho Khánh, nói Khánh ra Sài Gòn đi, tôi sẽ ra ngay và gặp nhau.


Sài Gòn có 19 quận và 5 huyện với số dân lên tới 10 triệu người, nhưng khi chúng tôi nói tới Sài Gòn là nói tới các quận trung tâm, hay nói cụ thể hơn là nói tới chợ Bến Thành và chung quanh bán kính khoảng một cây số.

Chúng tôi gặp nhau ở quán cà phề trong khuôn viên Dinh Độc Lập; ngoài Đoàn Văn Khánh còn có Cao Bá Hưng. Cao Bá Hưng là một người bạn vai em, quen nhau sau 1975, làm thơ, viết nhạc và sống bằng nghề điêu khắc  ở Sài Gòn.

Khánh sinh trước tôi 6 tháng, Tôi sinh vào tháng giêng  năm sau, nên theo tuổi thì Khánh hơn tôi một tuổi. Chúng tôi quen nhau thời sinh hoạt Thi Văn Đoàn thiếu niên. Thập niên 60, ở miền Nam rộ lên phong trào thành lập thi văn đoàn - nơi các nhóm bạn trẻ cùng nhau sáng tác và gửi bài đăng báo. Dạo ấy  có khoảng mười tờ báo thiếu nhi như Bạn Trẻ, Tuổi Xanh, Tuổi Hoa, Măng Non, Việt Sinh... và hầu như các nhật báo hàng ngày, báo nào cũng dành một góc cho trang thiếu nhi.

 Năm đó, Tuần báo Việt Sinh tổ chức cuộc thi viết Việt Sinh. Kết quả Đoàn Văn Khánh đoạt giải nhất về thơ. Giải nhất về văn cũng trao cho một người tên Khánh - Hà Thúc Khánh. (Mấy chục năm sau, tôi gặp lại Hà Thúc Khánh ở Mỹ. Hà Thúc Khánh vẫn viết văn, nhưng viết bằng tiếng Anh, lấy bút hiệu là Khanh Ha. Khánh  có tặng cho tôi tác phẩm mới nhất của anh. Gặp một lần và sau đó không có dịp gặp nữa).

Đoàn Văn Khánh lúc đó cùng mấy người bạn lập thi văn đoàn Hàn Mặc Tử. Những người trong nhóm ấy bây giờ chỉ còn  Đoàn Văn Khánh và Lê Hồng Thái theo đuổi việc sáng tác nhưng Thái nghiêng về điêu khắc nhiều hơn và là một điêu khắc gia nổi tiếng vùng đồng bằng sông Cửu Long.

 Khánh thì vẫn là người chung thủy với thơ. Câu thơ Đoàn văn Khánh làm năm 17 tuổi: "Người ta biết cũng đâm liều, còn hơi thở yếu, còn yêu em hoài" hay câu thơ  làm năm 27 tuổi: "Cảm ơn riêng một góc ngồi, cho tôi xin nửa vành môi trữ tình"  hoặc câu thơ 50 năm sau: "Thưa em con gái miền tây, Bắt qua tơ tưởng đêm ngày không yên ".

 Vẫn là những dòng thơ trữ tình, sử dụng lục bát chuyên chở chất lãng mạn thiết tha của cái tình đắm đuối. Tất nhiên, thơ Khánh không chỉ là lục bát, mà nhiều thể loại và nhiều đề tài, nhưng trong lòng tôi, lúc nào nghĩ đến thơ Khánh là nghĩ đến lục bát và nghĩ đến thơ tình. Quen biết và thân với nhau hơn 50 năm rồi, chúng tôi đã vượt qua khỏi cái giao tế bằng hữu bình thường mà chỉ nhìn ánh mắt nhau đã hiểu người kia muốn gì, đoán được ý nhau và hòa được cái sở thích của nhau.

Khánh nói, sáng nay Nguyên Minh ở nhà chờ ông đến, có mấy bạn văn nữa. Buổi cà phê hội ngộ đầu tiên thu ngắn lại. Cả ba chạy về phía Tân Sơn Nhất để đến nhà Nguyên Minh.

 

"Tòa soạn Quán Văn"  thực ra chỉ là một căn phòng nhỏ, diện tích khoảng vài chục thước vuông, ở đó là sách vở, computer, máy in . Vòng quanh vách là mấy băng ghế để anh em ngồi chơi trò chuyện, khung của số nhìn xuống một khoảng sân mênh mông  vắng lặng của một góc phi trường Đây là một nơi gặp gỡ của rất nhiều người cầm bút, là nơi làm việc của nhà văn Nguyên Minh, một nhà văn cao tuổi nhưng có đôi mắt như trẻ thơ và  một cái đầu mơ mộng chất chứa biết bao nhiêu dự án hết sức mộng mơ.

 

Nguyên Minh cầm bút từ đầu thập niên 1960. Năm 1970, anh sáng lập tạp chí Ý Thức, với sự đồng hành của Đỗ Hồng Ngọc, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Trần Hữu Ngũ, Châu văn Thuận... Sau đó, trải mấy mươi năm sống với ngành in ấn,  năm 2011, anh chủ trương  một tuyển tập văn chương lấy tên là Quán Văn.  Với 4 tác phẩm văn xuôi,  mọi người gọi anh là nhà văn, nhưng ngay lần đầu tiên được gặp và làm quen với anh hồi năm sáu năm về trước, tôi nhìn thấy từ anh là một nhà báo - một nhà báo văn học.

 

Một người viết văn làm báo thì chỉ có thể làm một loại báo: đó là báo văn học vì tờ báo loại này đòi hỏi những khả năng khác với báo thông thường. Tờ báo bình thường đòi người chủ biên phải nhạy bén với kinh doanh, am tường chính trị, hiểu biết đời sống và nhất là thích nghi với thị hiếu độc giả. Những đòi hỏi đó Nguyên Minh không có, hay nói một cách khác là anh không mặn mòi gì với những thứ đó. Nguyên Minh có cái khác, đó là lòng yêu thích chữ nghĩa văn chương, và niềm đam mê với những sản phẩm in ấn.

 

Có một bất ngờ nào đó khi bắt gặp Nguyên Minh bên cạnh một tác phẩm văn chương mới được in ra, còn long lanh vết mực và ngát thơm mùi giấy mới, thì mới thấy được hết cái hạnh phúc của anh bên những sản phẩm mới làm. Xuất bản được Quán Văn và duy trì Quán Văn suốt năm năm qua là do một thiên khiếu riêng chỉ có ở Nguyên Minh. Suốt hơn 60 năm sống với chữ nghĩa, anh có giao tình, quen, biết rất nhiều người cầm bút, cộng thêm cách sống hòa nhã và chia sẻ, nên anh giữ được  mối thân tình với anh em gần xa. Nguyên Minh có khả năng cảm nhận và phân tích rất nhanh cái đúng sai, hay dở của một bản thảo gửi về. Và quan trọng hơn cả là anh chấp nhận các dị biệt trong văn chương, các dị biệt trong ứng xử  và cả những dị biệt trong cách nhìn, để rồi, trong căn phòng nhỏ làm tòa soạn Quán Văn đó, mọi dị biệt vẫn có thể trộn lẫn một phần riêng vào phần chung cho một ham thích thực hiện một sân chơi văn chương của mọi người.

 

Trong căn phòng hôm đó có Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh, Mang Viên Long, Đoàn Thị Phú Yên, Đoàn Văn Khánh, Hoàng Kim Oanh, Trương Văn Dân, Elena, Nguyễn Minh Nữu, Cao Bá Hưng... Một lát sau thì có thêm Cúc Hoa, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Sông Ba và Hoàng Kim Chi.

 

Đây là lần đầu tiên tôi gặp nhà văn Mang Viên Long - một tác giả tôi yêu thich từ lâu với những bài văn ngắn chan chứa tình người.  Trước đây  mấy năm, tôi có cơ hội liên lạc với anh qua điện thoại và rất quý mến chất hào sảng và chân tình của anh.

 

Bác sĩ Thân Trọng Minh với bút hiệu Lữ Kiều là một kịch tác gia quen thuộc với tạp chí Ý Thức ngày xưa, và nhiều tạp chí văn học cùng thời. Anh còn là một họa sĩ, đã nhiều lần tổ chức triển lãm tranh. Kịch của Lữ Kiều là kịch của cảm xúc, trong đó những đối thoại như từng nhát chém, khảo tra vào nội tâm người đối thoại, nếu nghe thoáng qua, khó lòng nắm bắt được ý nghĩa bên trong, do đó chỉ có thể là kịch đọc và truyền thanh chứ khó dàn dựng, bởi vì, những suy tư trăn trở ở trong các nhân vật quá nặng, tìm được người diễn đạt nổi yêu cầu là cả một khó khăn. Tranh của Thân Trong Minh là tranh trừu tượng, màu sắc rạch ròi và cảm nhận người xem là tự suy và thỏa thuận với những biểu tượng mà tác giả đưa ra.

 

Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc cũng có ghi lại buổi gặp gỡ đó trong trang cá nhân của anh: "Hôm 9.9.2016, Phạm Cao Hoàng & Cúc Hoa từ Tuy Hòa về, anh chị em Quán Văn lại có buổi họp mặt thân mật ở tòa soạn “chuồng cu” Quán Văn tận Gò Vấp. Có Mang Viên Long cũng vừa từ Quy Nhơn vào, Nguyễn Minh Nữu, Phú Yên, Hưng, Kim Oanh, TVD, Elena… đông đủ. Quả là cái tòa soạn “chuồng cu” Quán Văn đã ngày càng chật chội… nhưng thân tình và ấm áp biết bao. Chủ báo Nguyên Minh cũng vừa chuẩn bị xong… cái bìa số 40, số đặc biệt giới thiệu nhà thơ Phạm Cao Hoàng, với tranh Cúc Hoa của Đinh Cường  rất đẹp để mang ra khoe bạn bè".

 

2

Hôm đó gặp Phạm Cao Hoàng và Cúc Hoa quá vui, bởi vì, tôi và PCH đề có kế hoạch đi Việt Nam, mỗi người một việc, Phạm Cao Hoàng thì đưa con gái và con rể về thăm gia đình sui gia, tôi thì đưa bà chị lớn tuổi về VN làm từ thiện, Ngày 9/9  là ngày thứ nhất tôi tới Việt Nam lại là ngày chót Phạm Cao Hoàng còn ở Việt Nam. Cho nên cái gặp chớp nhoáng làm cả hai cùng thú vị.

 Tôi đọc và quý mến cái tên Phạm Cao Hoàng từ thời 1971, 1972. Khi đó, tạp chí Ý Thức đăng bài thơ "Thơ Tặng  Người Tuổi Trẻ" của anh.  Tôi đọc bài thơ đó khi vừa vượt qua tuổi hai mươi, thế mà cái hào khí của bài thơ làm tôi xao xuyến và tự kỳ vọng vào cái tuổi trẻ của năm mình ba mươi biết bao nhiêu. Từ đó, tôi theo dõi thơ của Phạm Cao Hoàng. Mỗi bài thơ của anh thời đó đều toát lên một khí chất đông phương và cái hào sảng của bậc hiền sĩ. Lúc đó, tôi chưa biết anh ở đâu, và bao nhiêu tuổi. Rồi tới bài thơ làm tôi thuộc lòng dù bài thơ đó là bài thơ anh viết để tặng cho người yêu lúc đó và là người bạn đời sau này: bài Nhớ Cúc Hoa. Gần 40 năm sau tôi mới có dịp gặp và quen Phạm Cao Hoàng nhưng không phải ở quê nhà mà là ở Virginia thuộc miền đông nước Mỹ. Phạm Cao Hoàng có ghi lại kỷ niệm đó trong bài thơ Thương  nhớ  Ngựa  Ô (*):

nhớ Ngựa Ô là nhớ những đêm bạn bè hát khúc sầu ca viễn xứ

nhớ Nguyễn Ngọc Phong và Gửi Em, Đà Lạt

nhớ Đinh Cường và Đoạn Ghi Đêm Centreville

nhớ Nguyễn Minh Nữu và Mênh Mông Trời Bất Bạt

nhớ Nguyễn Trọng Khôi và Giấc Mộng Trên Đồi Thơm

nhớ Ngựa Ô là nhớ con đường

in dấu chân bạn bè tôi từ những nơi xa xôi có khi là nửa vòng trái đất

ngồi bên nhau giọt rượu cay trong mắt

ngồi bên nhau cùng nhớ một quê nhà

quê nhà thì xa mây thì bay qua

đời phiêu bạc như những đám mây trôi giạt

nhớ Ngưa Ô là nhớ những bàn tay ấm áp

tôi thương Ngựa Ô và thương bạn bè tôi.

 Từ đó, chúng tôi thành bạn, Thú vị biết bao nhiêu khi bạn của Phạm Cao Hoàng thành bạn tôi và bạn tôi  nay đã là bạn của Phạm Cao Hoàng. Gặp gỡ hôm nay ở nhà Nguyên Minh là gặp gỡ của những người bạn chung đó.

Cùng gặp gỡ lần này còn có Trương Văn Dân, Elena, Hoàng Kim Oanh, Nguyễn Sông Ba, Hoàng Kim Chi, Đoàn Thị Phú Yên và nhiều bằng hữu khác - những người để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp mà tôi sẽ đề cập trong những phần tiếp theo của bài viết này.

 Ôi thương quá Sài Gòn ngày trở lại, ngay ngày đâu tiên đã chạm được tay vào rất nhiều mối thân tình.

 (*) Ngựa Ô (Black Horse): tên một con đường ở thành phố Centreville (VA).

 Tôi chạy xe một mình, lang thang trong thành phố với cái tâm hết sức thanh thản. Đi mà chẳng nhắm đi đâu, lại thú vị hơn nữa là không câu thúc gì giờ giấc, muốn về lúc nào thì về. Chạy xe gắn máy ở Sài Gòn? Vâng, với một số bạn hữu bên Mỹ thì chuyện chạy xe gắn máy ở Sài Gòn là chuyện không dễ dàng dù bên này ngày nào cũng lái xe cả giờ đi làm và về nhà, cuối tuần lái xe xuyên bang đi New York, đi Florida.

 Thực ra, lái xe hơi ở Sài Gòn thì quả thật tôi không dám lái, vì đang chạy mà chẳng biết ai đó bất chợt đâm ngang trước mặt, hay đang chạy họ thắng giữa chừng, hoặc bên trái, bên phải có ai lượn qua , cúp đầu xe hay không. Còn lái xe gắn máy thì người Sài Gòn sao tôi vậy.

 Đứng trên cao, nhìn xuống bùng binh ngã sáu, ngã bảy thấy tràn lan xe gắn máy, hàng ngàn chiếc xe từ các hướng chạy vào, vai sát vai, tay lái thiếu điều chạm tay lái, mà mọi người vẫn cứ ào ạt chạy tới, chẳng có chiếc xe nào dừng lại nhường  chiếc xe nào. Nhưng nếu mình là người trong cuộc, là người chạy chung trong đám xe đó mới "thấy vậy mà không phải vậy". Với tốc độ thường khoảng 15 km/ giờ khi đi chuyển đường thẳng, và khoảng 10 km/ giờ khi vào giao điểm, các xe liếc nhìn nhau, mày phóng nhanh hơn thì tao chạy chậm lại, mày nghiêng qua trái thì tao tạt qua phải, rồi thì bất ngờ có chiếc nào chặn trước mặt thì chỉ một cái nhấp thắng nhẹ, xe lướt êm qua phía khác và lượn trở lại hướng mình muốn đi, nhẹ nhàng, êm ái  chỉ có hơi ồn. Tai nạn xe gắn máy chỉ xảy ra ở đường liên tỉnh, còn ngay tại Sài Gòn hiếm khi có tai nạn lớn giữa hai cái xe gắn máy, còn va chạm nhau té lăn kềnh rồi lồm cồm bò dậy chạy tiếp là chuyện...bình thường.

 Suy nghĩ miên man rồi bỗng dưng tôi tấp lại lề đường không chủ đích. Dừng lại rồi mới nhìn quanh và tự lòng có chút gì ngạc nhiên. Sao lại dừng ở đây nhỉ?  Ồ thì ra từ tiềm thức nào đó, tự nhiên dừng lại ngã ba đường. Đây là đường Phan Thanh Giản, và ngã ba  là đường Bàn Cờ.  Ký ức điều khiển tôi. Tôi đang dừng lại một chỗ ngày xưa lưu biết bao kỷ niệm. Cách ngã ba khoảng 50 mét , phía bên trái là quán cà phê Bình Minh, phía bên phải là đường hẻm nhỏ chạy ngoằn ngoèo để ra chợ Bàn Cờ, trong hẻm là nhà của Lê Hồng Thái, Nguyễn Ngọc Nhung và Đoàn văn Khánh, phía bên kia là hẻm ra Nhà lầu Năm Tầng, nơi có nhà Lê Ôn Vũ... gợi nhớ tới cái thời tết Mậu Thân.

 Năm đó, chúng tôi vừa vào tuổi thanh niên, trong đám bạn làm thơ viết văn có Vũ Chinh. Vũ Chinh tên thật là Đỗ Xuân Chinh. Chinh 17 tuổi, đăng khá nhiều thơ ở tuần báo Tuổi Hoa lúc đó do các nhà văn Hoàng Đăng Cấp, Quyên Di phụ trách.  Có thể nói, giai đoạn đó, Chinh khá nổi tiếng trong những người bằng vai phải lứa  với Chinh. Chinh khao khát in tập thơ đầu tay, và gần Tết thì Chinh đạt được ước mơ. Tập thơ đã đưa nhà in sắp chữ, và có một bản vỗ đưa cho Chinh để về đọc  dò lỗi chính tả. Chinh có nhiều bài thơ hay, như bài thơ viết khi đi thăm mộ người bạn mới mất:

 Giờ trước mộ mày , tao đứng thắp nhang.

Tao lạy hai lạy vụng về hết sức

Tao lạy hai lạy nghe cay tròng mắt

Rồi thì thế nào tao cũng như mày.

Hay một bài lục bát gửi tặng một người con gái tên Kim Xuyến:

Phố khuya tóc rối tỉnh say

Không Kim Xuyến thấy mặt ai cũng buồn.

 Vũ Chinh chưa kịp nhìn thấy tập thơ của mình chính thức phát hành thì anh đã chết trong Tết Mậu Thân năm ấy. Khi chiến trân lan qua tới Hương Lộ 14 - khu nhà của Chinh, gia đình kéo nhau chạy về thành phố tránh đạn bom, còn Chinh thì nhất định ở lại coi nhà. Người ta kể lại:  Chinh nằm sấp, dưới đất, đọc bản vỗ tập thơ của mình, trước mặt xếp mấy két bia che chở, nhưng một loạt đạn đã bắn lạc vào chàng,  Chinh gục xuống chết ngay, tay vẫn giữ vào tập thơ. Tôi không nhớ tập thơ tên gì, nhưng nhắc đến Vũ Chinh là nhớ dến khuôn mặt vuông vắn, cặp kính cận thị gọng đen  thân hình thấp lùn và những câu thơ gợi nhiều cảm xúc.  Sau này, bằng  một cái duyên , tôi có liên lạc được với một trang web tên là Phay Văn, ở đó, có một nhà văn nữ viết cùng thời với Vũ Chinh ở Tuổi Hoa là Cam Li  Nguyễn Thị Mỹ Thanh. Khi biết tôi là bạn cũ của Vũ Chinh, Mỹ Thanh đã có nhã ý gửi cho tôi bốn bài thơ nữa của Vũ Chinh. Như một kỷ niệm thời mới lớn.

 

Thời đó chúng tôi hay ra ngồi quán cà phê Bình Minh. Quán không trang trí gì cả,  sáu cái bàn, ghế ngồi thấp. Chúng tôi ngồi đó, hẹn hò nhau tại đó và không hẹn nhau cứ ra đó rồi cũng gặp, có lẽ phần lớn là do chủ quán có một cô con gái dễ thương. Tuyết có đẹp hay không thực ra tôi không nhớ rõ, loáng thoáng là da trắng,  bầu bĩnh, tóc dài và hay mắc cỡ.  Cho đến cuối năm 1968 là chúng tôi tan tác mỗi đúa một phương trời. Kỷ niệm còn nhớ là Lê Hồng Thái , người rời đám đông trước nhất, Thái tụ tập anh em lại làm một buổi chia tay, Thái đọc một bài thơ, câu kết là " trước nhớ Tuyết Bình Minh, sau đó nhớ tụi mày".  Câu thơ đọc xong cả bọn ồ lên như ong vỡ tổ và xúm nhau lại kể về những tình ý riêng của Tuyết dành cho mỗi thằng, thằng nào cũng đặc biệt, chẳng thằng nào giống thằng nào. Và thằng nào cũng nghĩ trong bụng là Tuyết để ý riêng một mình mình.

 

Lê Hồng Thái tướng tá cồng kềnh, có võ và nói chuyện hết sức mềm mỏng. Có lẽ cái lợi thế đó cộng thêm tài làm thơ nên Thái rất đắt đào. Thơ của Lê Hồng Thái hay, lục bát mà ngôn từ mới lạ, bí hiểm. Vì lạ và bí hiểm nên dù lúc đó thích thơ Lê Hồng Thái mà tôi không còn thuộc được câu nào. Tin tức về Thái là sau một thời gian đi xa Bàn Cờ, Thái trở lại thăm nhà, Tuyết Bình Minh đã lấy chồng nên Thái  lập gia đình với một cô chủ quán cà phê khác gần đó.  40 năm sau gặp lại, Thái vẫn làm thơ, nhưng chuyên chú nhiều về tranh và tượng.  Lê Hồng Thái bây giờ nổi tiếng khắp miền tây là do những tác phẩm điêu khắc này.  Tưởng là Tuyết Bình Minh đã đi vào quá khứ mù tăm thời niên thiếu, thế mà bất ngờ khi đọc bài thơ Lê Hồng Thái viết năm 2016, nghĩa là hơn 40 năm sau :

Ngồi một mình nhớ Tuyết Bàn Cờ

gót chân mòn mỏi quạnh hiu

về ngang xóm cũ ru chiều tóc phai

năm mươi năm nỗi nhớ đầy

làm sao gặp lại em ngày tròn xưa.

Lê Ôn Vũ thì biệt tích, Nguyễn Hoàng Nhung ở Ban Mê, Đoàn văn Khánh về Hóc Môn, Lê Hồng Thái ở Mỹ Tho, Tôi bất ngờ dừng góc phố xưa, đứng nhìn bốn phía, thương nhớ:

Từng góc phố ngát thơm từng ký ức

Mỗi mặt người đăm đắm một riêng tư...

Vừa lúc ấy Đoàn văn Khánh gọi điện báo tin Phạm Thành Châu cũng mới về, hẹn đi ăn trưa cùng anh em Quán Văn.

Phạm Thành Châu là một tác giả quen thuộc với người Việt hải ngoại. Truyện của ông thường là những mối tình éo le nhưng kết cuộc tốt đẹp và hoàn hảo. Bối cảnh truyện đa số là hải ngoại, hoặc một phần từ trong nước ngày xưa nối kết với ngoài nước bây giờ. Lối kể chuyện của Phạm Thành Châu dí dỏm, hấp dẫn và cuốn hút người đọc ngay từ những trang đầu.

Người đưa Phạm Thành Châu tới gặp anh em là Nguyễn Sông Ba. Nguyễn Sông Ba là nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và là họa sĩ. Tranh của Nguyễn Sông Ba  nhẹ nhàng như minh họa cho một cái tâm thanh tịnh. Nguyễn Sông Ba ít nói và cũng ít cười, dù ngồi với đám đông, nhưng Nguyễn Sông Ba luôn lúi cúi chọn góc nhìn để lưu vào máy những khuôn mặt, những sự kiện, những tình huống và rất nhiều  sinh hoạt của Quán Văn đã lưu lại được nhờ ống kính Nguyễn Sông Ba.

Sau bữa ăn hội ngộ với  Phạm Thành Châu ở trung tâm thành phố, Nguyên Minh  lại mời Phạm Thành Châu ghé tòa soan Quán Văn vào một ngày khác để gặp nhiều anh em hơn.

Đến ngày hẹn, tôi lấy xe gắn máy lên khách sạn đón Phạm Thành Châu và chở xuống Quán Văn. Hôm đó, nghĩ là sẽ gặp nhiều người nên tôi đem theo món quà đặc biệt để mời mọi người. Một món ăn lạ của miền Bắc. Món ăn này phải đúng mùa mới có và phải biết làm mới ngon và đặc biệt hơn nữa là phải ăn ngay chứ không để dành được, đó là món cốm nén. Nhà văn Vũ Bằng, tác giả "Món Ngon Hà Nội" đã ghi nhận về cốm nén như sau: "Món ăn cổ kính vào bậc nhất là cốm nén. Có lẽ vì cốm là một thứ quà quí mà lại không để được lâu, nên người ta mới nghĩ ra cách nén cốm, để cho cốm không bị mốc mà ăn vẫn có thể ngon và dẻo." Cốm đã là một món ăn trang nhã và quý hiếm rồi, ngay bây giờ, ở Sài Gòn muốn ăn cốm thì chỉ có thể ăn cốm khô, còn cốm tươi, đúng mùa thì tới ngay siêu thị Hà Nội ở đường Cống Quỳnh  cũng lắc đầu, và nói phải đặt hàng từ 5 ký trở lên mới gọi được  hàng từ Hà Nội gửi vào. Cốm được thu hoạch vào những ngày đầu thu,  suốt vùng đồng lúa ngào ngạt hương thơm mùa lúa chín. Người làng hái những  đọt lúa non về và trong thời gian một ngày phải bắt tay vào chế biến cốm ngay. Cách chế biến từ đọt lúa non ra cốm  vẫn là những công thức bí truyền của từng dòng họ, mà khéo léo nhất,  giữ được hương vị nhất vẫn là cốm làng Vòng. Muốn làm cốm nén thì phải dùng cốm tươi. Cốm tươi, lấy ra rải lên đó một lớp nước đường mỏng, trộn đều cho dẻo hạt cốm rồi đưa lên chảo xào. Lúc xào phải quấy đều tay, nhanh quá thì cốm nát, chậm quá thì cốm khét, sau đó đổ ra đĩa  chờ cho nguội.  Mặt cốm màu xanh mạ non, khi ăn cắt ra từng miếng bàng hai ngón tay và đưa vào miệng từng miếng nhỏ. vị ngọt và mùi hương  ngát thơm vào khứu giác. Hôm đó, người chị ruột của tôi đã chiều ý đứa em trai từ xa về, thực hiện một đĩa cốm nén để  em đem lên đãi bạn. 

Mọi người đang thưởng thức món cốm nén, từ trái qua: Carol Kim, Đoàn văn Khánh, Nguyên Minh,Hoàng Kim Oanh, Phạm Thành Châu,Trương văn Dân, Nguyễn Minh Nữu,Elena,  

Thật là vui khi ngoài những người bạn Việt Nam ở nhiều tỉnh thành, lại có thêm một người nước ngoài nữa là nhà văn Ý Elena Etala Pucillo. Đây là cô gái người Ý thật đặc biệt. Elena là tiến sĩ văn chương và hiện dạy tiếng Pháp và tiếng Ý tại Sài Gòn. Elena đến Việt Nam và ở lại Việt Nam bởi vì chồng cô là người Việt. Elena lập gia đình với Trương Văn Dân ở Ý, sau đó,  khi Trương Văn Dân quyết định về cư trú lâu dài ở Việt Nam, Elena theo chồng cùng về. Tập truyện  "Một phút Tự Do" của cô do Trương Văn Dân chuyển ngữ  kể về sinh hoạt đời thường được nhìn tinh tế và sâu lắng nội tâm, để lại người đọc cái dư âm thẫm đẫm tình người. Tôi có dịp ở gần đôi uyên ương này hơn 10 ngày, khi họ qua Mỹ và tạm ngụ tại nhà tôi, mới đầu thì ngạc nhiên bởi tính chất nhẹ nhàng thân thiên và hòa đồng với mọi người của một phụ nữ gốc Ý, sau đó, dù vẫn thấy mái tóc vàng, đôi mắt xanh biếc và nụ cười cởi mở, nhưng tôi quên hẳn đi cô ta là người ngoại quốc.  Elena tế nhị và dịu dàng, hiểu biết và chia sẻ cảm xúc như một người bạn Việt. Cô nói Tiếng Việt khá thành thạo.

 Một người nữa có mặt hôm đó đã cho tôi ấn tượng thật nhiều là Hoàng Kim Oanh. Tôi thấy và nghe Hoàng Kim Oanh nói chuyện lần đầu trong lần ra mắt Quán Văn  kết hợp giới thiệu tác phẩm Một Phút Tự Do của Elena.  Hoàng Kim Oanh cũng là tiến sĩ văn chương, hiện đang giảng dạy tại một trường đại học ở Sài Gòn. Hoàng Kim Oanh là diễn giả thứ hai nói về tác phẩm này. Tà áo dài duyên dáng, tiếng nói chậm rãi và nhỏ nhẹ, đã làm cả hội trường ngừng trò chuyện riêng để lắng nghe. Tôi thực lòng không nhớ rõ hết những gì Hoàng Kim Oanh nói hôm đó, chỉ còn cảm giác là diễn giả rất trân trọng với tác phẩm, và quyến rũ được người khác có chung lòng yêu thich này, nên hôm đó tôi đem về nhà hai thứ, cuốn truyện của Elena và lòng quý mến của Hoàng Kim Oanh.

 

 

3.

Trước 1975, Saigon có rất nhiều nhà sách nổi tiếng, như Khai Trí, Xuân Thu, Lê Phan , Vĩnh Bảo, Tự Lực...Mỗi nhà sách có một phong cách riêng. Xuân Thu thiên về sách dịch và văn học nước ngoài, Lê Phan , Vĩnh Bảo  bán nhiều sách triết học, còn Khai Trí thì tổng hợp sách báo tạp chí... Nhà sách Khai Trí là lớn nhất, với bề rộng của ba căn nhà mặt tiền đường Lê Lợi và khi tôi lớn lên, bước vào thì nhà sách có tới hai tầng trình bày hầu như đầy đủ các loại sách báo tạp chí đang lưu hành.  Ở các nhà sách đó là không gian thanh nhã, nghiêm trang...

Đối diện với nhà sách Khai Trí, phía bên kia đường là chợ sách Lê Lợi. Tôi không rõ là chợ sách này hình thành từ lúc nào, chỉ biết nó tan rã vào tháng 4 /1975.  Chợ sách bắt đầu từ ngã tư Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực tới ngã tư Lê Lợi - Pasteur. Những người bán sách dựng những sạp, trên che bằng tôn , sách bày từng kệ cao ngất ngưởng, rồi từng chồng trên sạp và lấn ra bày đầy trên những miếng nilon trải trên đất. Tôi tới đây nhiều lần thời mới lớn, khoảng năm 1970. Sách ở đây đủ thứ, sách mới, sách cũ, đủ thứ đề tài khoa học, chính trị, xã hội ,văn hóa...

 Đi dạo chợ sách Lê Lợi là một thú vui, khởi đi từ đầu chợ, chậm rãi lang thang, ghé chỗ này cầm lên một cuốn , tò mò lật ra vài trang rồi bỏ xuống, qua chỗ kia bị hấp dẫn bởi cái bìa nào đó, lại một cái tựa hay... Đi đến cuối  là ngã tư Pasteur, băng qua đường ăn vài miếng phá lấu thơm phức, uống ly nước mía Viễn Đông ngọt lịm, có thể đi thẳng để đến Thương Xá Tax, có thể băng qua đường để ghé Kem Bạch Đằng.

 Sau 75, những người bán sách đó tập trung ở con đường nhỏ, nằm cạnh hãng máy may Sinco, và chuyên bán sách cũ. Đường sách này có thêm nhiều người mới hành nghề bán sách cũ.  Họ có thể là là nhạc sĩ, nhà Văn, nhà thơ, giáo sư, viên chức  cũ; do thời cuộc đưa đẩy, lấy sách của chính mình thu thập tích trữ bấy lâu đem ra bán kiếm chút gạo nuôi con.  Đường sách này cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn, y hệt như chợ bán đồ máy móc cũ , lạc soong ở ngã tư Huỳnh Thúc Kháng - rộ lên  năm ba tháng  rồi bị dẹp và tan hàng. 

 Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm về đường sách Đặng Thị Nhu này. Giữa năm 1976 tôi làm công nhân, lương mỗi tháng 65 đồng, cứ cuối tuần là lê la ra khu chợ sách, nhìn ngắm cầm lên đặt xuống thì nhiều chứ mua chẳng bao nhiêu. Khoảng gần đầu chợ có một sạp tôi hay ghé, chủ nhân là một người đàn ông đứng tuổi, tóc hoa râm, nói tiếng Huế, ít cười, nhưng khuôn mặt hiền hòa, thường thì ông ta cầm trên tay một cuốn sách gì đó, cố ý ra vẻ chăm chú đọc để không làm người mua sách ngai ngùng. Ngại ngùng vì cầm cuốn sách quá lâu, đọc cuốn sách quá nhiều, có khi đọc tới năm bảy trang, đọc mà tự ngượng, rồi bỏ sách xuống đi về.  Tôi cũng đã từng mua ở đó vài ba cuốn, nhưng lựa sách mỏng,  giá nhẹ như "Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi " của Rainer Maria Rilke hay "Lời Dâng" của  Tagore, vì đó là những cuốn tôi yêu thích và tự nhủ sẽ phải gối đầu giường, còn đọc đi đọc lại nhiều lần và nhất là giá có vẻ phù hợp với số tiền trong túi, hai cuốn đó, dường như mỗi cuốn chỉ khoảng 3 đồng. Sau đó , tôi thèm cuốn "Thiền Luận" của Suzuki, nhưng với chiều dày khoảng 8 phân thì giá không rẻ rồi. Tần ngần  nhiều lần, đọc cái thẻ giấy dùng để làm dấu trang đang đọc, mà trong cuốn Thiền Luận in kèm sách đã thuộc lòng: Tăng tôi lúc chưa biết gì, thấy núi là núi, thấy sông là sông. Sau được bậc thức giả chỉ dạy mới biết núi không phải là núi, sông không phải là sông. Nay đã tu hành và hiểu, mới hay núi chỉ là núi , sông chỉ là sông... Cầm cuốn sách trong tay cả ba lần ghé lại mà không dám hỏi mua, sau đó, mới ngai ngùng ướm thử....cuốn này  giá bao nhiệu. Người đàn ông kéo cái kính xuống thấp trên sóng mũi, nhướng mắt nhìn tôi một lúc rồi mới trả lời,  "Cuốn này không bán, nếu anh thích, cứ lấy về đọc, đọc giữ sách cho kỹ, đọc xong đem trả".Tôi sửng sốt, nhìn ông ta, lúng túng chưa biết trả lời sao thì người đàn ông ở sạp bên cạnh góp lời: "Nếu ngại thì cứ ra đây, ngồi vào trong này mà đọc, có sẵn trà và thuốc lào nữa nè".

 Từ đó, tôi được kết giao với ba người chủ sạp sách cũ ngồi kế bên nhau : Ca trưởng Viết Chung, một nhạc sĩ bậc thầy về hợp xướng, ông bán sách cho tôi là họa sĩ Cù Nguyễn, người đã cùng Đinh Cường, Nguyễn Trung và vài người nữa sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam,  và người cho phép tôi ngồi bên đọc sách có nước trà uống là nhạc sĩ Trần Văn Bùi, tác giả nhiều ca khúc mà phong trào du ca hồi ấy thường hay hát. Ba người này, sau đó trở thành những người anh thân thiết, trong đó, họa sĩ Cù Nguyễn sém chút xíu trở thành thông gia với tôi.

 Bây giờ thì Sài Gòn có nhiều khu bán sách  như khu Trần Nhân Tôn hay  đầu đường Hồng Thập Tự (Nguyễn thị Minh Khai), gần bùng binh Cộng Hòa, Đường Trương Tấn Bửu (Trần Huy Liệu) nhưng gần đây có một đường sách nữa nằm bên hông Bưu Điện chính ở Sài Gòn.

 Buổi sáng đó, hẹn với Đoàn Văn Khánh ra uống cà phê,  tôi ra sớm quá, gửi xe rồi một mình tản bộ khu nhà thờ Đức Bà, bất ngờ thấy một khu đường bày bán sách, mừng quá, tưởng là khám phá mới của mình, té ra Khánh biết lâu rồi. Biết được khu đường sách, trong đó lại có sẵn quán cà phê, địa điểm này tôi ghé lại rất nhiều lần trong chuyến đi này.

 Buổi sáng ở đây thanh tĩnh và hết sức nên thơ. Cái nắng lên chỉ làm sáng con đường chứ không làm cho mồ hôi toát ra, và cái sinh hoạt chung quanh cũng có vẻ nhẹ nhàng, lời nói trao đổi vừa đủ nhau nghe chứ không ồn ào như đường phố. Vị trí tôi thường ngồi lại là quán cà phê của nhà xuất bản Phương Nam, nhìn ra  nhà sách Đông A.  Tại đây tôi có dịp làm quen  với một người làm thơ còn trẻ. Nhà thơ Trần Võ Thành Văn và một người phụ trách bán sách rất dễ mến, có trình độ giới thiệu cho mình những tác phẩm nên mua, nụ cười hiền hòa và tia mắt rất thông minh, sau mới biết đó là cô giáo Phạm Bích Thơm. Trần Võ Thành Văn vừa học xong Đại Học Sư Phạm.  Thơ của Văn toát ra cái nội lực sung mãn của tuổi trẻ, nhìn sự vật, hay tình yêu với những khát khao mới lạ, yêu thiết tha và tỏ bày theo ngôn ngữ của thời đại Văn đang sống. Tình say đắm thì Trần Võ Thành Văn đặt tên là "Sến Khúc"

 "Chẳng thể gặp em giữa mùa đông buồn bã

anh giấu trái tim mình sâu thẳm mỗi câu thơ

chẳng thể yêu em, chẳng thể làm kẻ lạ

anh cứu vớt đời mình trong nước mắt đêm mơ."

 Lần ngồi ở quán cà phê Phương Nam trong đường sách, Trần Võ Thành Văn đưa Vũ Trong Quang tới. Tôi nghe tên Vũ Trọng Quang từ lâu lắm trước 75, hồi đó, Cơ sở Động Đất gồm có các thành viên mà tới bây giờ vẫn còn cầm bút như Vũ Trọng Quang, Trần Hữu Dũng, Linh Phương. 


 Nguyễn Minh Nữu - Vũ Trọng Quang - Trần Võ Thành Văn

Cà phê Phương Nam - Sài Gòn, tháng 9.2016

 Vũ Trọng Quang và tôi nhắc lại  những khuôn mặt quen thời mới lớn,  đặc biệt là một người bạn thân mà cả hai cùng quen giờ không biết nơi đâu là Kiều Linh Giang. Kiều Linh Giang tên thật là Trần Thanh Liêm. Giang với tôi cùng tuổi, tướng cao lớn mập mạp, người miền nam. Giang có lập một thi văn đoàn tên Hoa Tình Thương, trong đó có Trịnh Ngọc Minh, sau này hơn 40 năm bất ngờ gặp đã trở thành một nhà văn nổi tiếng hải ngoại, đó là nhà văn Trịnh Y Thư - có thời gian trông nom tờ tạp chí Văn Học ở California. Vũ Trọng Quang gọi điện thoại tới vài người bạn xưa, tìm dấu vết Kiều Linh Giang mà đều không có kết quả. Kiều Linh Giang Trần Thanh Liêm ơi, thiệt lòng tao mong từ bài viết này, từ những cơ duyên nào đó, mày đọc được những dòng này thì liên lạc với tao nghe. Nhớ lắm căn nhà cạnh  Rạch Ông Lớn, nhớ lắm những lần tụi mình đi đò từ quận Tám, qua Tân Quy Đông, rồi lại lên đò để về Quận Tư, nhà bà nội mày.  Con đường đó sao nó xa, dài và chông gai như một chuyến phiêu lưu vào nơi đất khách.

Nov 2016

Nguyễn Minh Nữu

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Minh Nữu: LỜI GHI TRÊN ĐÁ. toàn bộ tập thơ xuất bản năm 2006

      VỀ NHỮNG BÀI THƠ CỦA NỮU ( lời mở của BÙI BẢO TRÚC) Con đường chạy tới một ngõ hẻm. Trời vừa mới xong một trận mưa. Mùi đất ẩm bốc...