竹侯阮玕夢
阮玕夢先生延河弘農人。字竹侯。別號農山。壬子科舉人。丙辰殿試副榜。歷任春長教授。尋充北圻中學校漢字科督教。陞補提學。現充統使府檢閱南報座簽事。
Phiên-âm:
Nguyễn
Can-Mộng tiên-sinh, Diên-Hà, Hoằng-Nông nhân, tự Trúc-Hầu, biệt-hiệu Nông-Sơn.
Nhâm-Tý khoa cử-nhân. Bính-Thìn điện-thí phó-bảng. Lịch nhậm Xuân-Trường
giáo-thụ, tầm sung Bắc-Kỳ trung-học-hiệu Hán-tự khoa đốc-giáo. Thăng bổ đề-học.
Hiện sung thống-sứ phủ kiểm-duyệt Nam-báo tọa thiêm-sự.
Tiên
sinh Nguyễn Can Mộng người làng Duyên Hà huyện Hoằng Nông, tên tự là Trúc Hầu,
tên hiệu khác là Nông Sơn. Đỗ Cử Nhân khoa thi năm Nhâm Tý. Đỗ Phó Bảng Điện
Thí-(Thi Đình) năm Bính Thìn. Từng giữ chức giáo thụ Xuân Trường. Lại được bổ
sung làm Đốc giáo khoa Hán tự trung học Bắc Kỳ, được thăng chức Bổ Đề Học. Nay
sung vào phủ Thống Sứ giữ chức Thiêm Sự trách nhiệm việc kiểm duyệt Nam Báo.
1.《重遊高陵寺》 在古薛社。
徑斜樹靜入高陵。
空界從來任客升。
明閣參差藏古佛,
閒花斑駁擁癯僧。
三千塵夢鐘初曉,
萬朵慈雲塔自凌。
即到禪門猶有分,
重來纔上最高層。
Trùng
du Cao-Lăng tự ⸻ tại Cổ-Tiết xã
Kính
tà thụ tĩnh nhập Cao-Lăng;
Không-giới
tùng lai nhậm khách thăng.
Minh-các
sâm-si tàng cổ-Phật;
Nhàn-hoa
ban-bác ủng cù-tăng.
Tam
thiên trần-mộng chung sơ hiểu;
Vạn
đóa từ-vân tháp tự lăng.
Tức
đáo thiền-môn do hữu phận;
Trùng
lai tài thướng tối cao tằng.
Dịch
nghĩa:
Lại
đến chơi chùa Cao Lăng xã Cổ Tiết.
Lối
mòn vào chùa Cao Lăng thoai thoải dốc đứng giữa hàng cây cối im lìm.
Cõi
không trước giờ mặc tình cho khách lên chơi.
Lầu
gác sáng sủa thấp cao che chở pho tượng Phật cổ.
Hoa
cỏ chen chúc màu sắc vây quanh nhà sư gầy còm.
Ba
ngàn thế giới giấc mộng trần ai gom lại hồi chuông sớm. (Dựa theo tín lý Phật
giáo, vũ trụ này có tam thiên đại thiên thế giới)
Vạn
áng mây lành tản mác đỉnh tháp cao.
Đến
được cửa thiền là do có duyên phận.
Đến
thêm lần nữa mới lên được tầng cao nhất.
Dịch
thơ
Lại
đến chơi chùa Cao Lăng xã Cổ Tiết.
Cao
Lăng lối dốc lặng lờ cây,
Cõi
không mặc khách tự trước nay,
Lầu
gác thấp cao che Phật cổ,
Lá
hoa chen chúc áng sư gầy,
Ba
ngàn thế giới chuông khua mộng,
Muôn
vạn từ tâm tháp ấp mây,
Đến
được cửa thiền là duyên phận,
Lại
đến mới lên được đỉnh này.
2.《賀鄭履吉先生新屋》 鄭以三科秀才。投書從政。不如所願。結廬茶溪間。與老妻偕隱。自題書窗有云。「每讀令尋孔顏樂處,高臥自謂羲皇上人。」所題之壁。為狂風所壞。某年夏重修之。
茶溪隱隱隔人家。
天為詩豪築邵窩。
憂樂登樓難自遣,
吟題有壁不妨多。
閒惟勖子留庭樹,
老尚攜書戀野花。
窗下請君看小照,
羲皇身世是真耶。
鄭圃煙花入徑迷。
深深閒院枕花溪。
堂升賀燕猶貧主,
廬對寒梅亦老妻。
詩壁寧隨風雨轉,
吟樓頻覺斗牛低。
江山縱起先生臥,
恰向書窗悔驟題。
Hạ
Trịnh Lý-Cát tiên-sinh tân ốc ⸻ Trịnh dĩ tam khoa tú-tài, đầu
thư tùng chánh, bất như sở-nguyện. Kết lư Trà-Khê gian, dữ lão-thê giai ẩn. Tự
đề thư-song hữu vân: “Mỗi độc tầm Khổng, Nhan lạc xứ; Cao ngọa tự vị Hy-Hoàng
thượng nhân.” Sở-đề chi bích, vi cuồng-phong sở-hoại. Mỗ niên trùng tu chi.
Trà-Khê
ẩn-ẩn cách nhân-gia;
Thiên
vị thi-hào trúc Thiệu oa.
Ưu
lạc đăng lâu nan tự khiển;
Ngâm
đề hữu bích bất phương đa.
Nhàn
duy úc tử lưu đình-thụ;
Lão
thượng huề thư luyến dã-hoa.
Song
hạ thỉnh quân khan tiểu-chiếu;
Hy-Hoàng
thân-thế thị chân da?*
Trịnh
phố yên-hoa nhập kính mê;
Thâm-thâm
nhàn-viện chẩm hoa-khê.
Đường
thăng hạ-yến do bần-chủ;
Lư
đối hàn-mai diệc lão-thê.
Thi-bích
ninh tùy phong vũ chuyển;
Ngâm-lâu
tần giác Đẩu, Ngưu đê.
Giang-sơn
túng khỉ tiên-sinh ngọa;
Kháp
hướng thư-song hối sậu đề.
Dịch
nghĩa:
Chúc
mừng nhà mới của tiên sinh Trịnh Lý Cát –
Trịnh
vốn là Tú Tài Tam Khoa. Bỏ sách vở đi làm quan. Không được như ý. Cất ngôi nhà
cỏ gọi là Trà Khê. Cùng vợ già ở ẩn. Tự đề trên cửa sổ thư trai rằng “Mỗi lần đọc
“Lịnh tầm Khổng Nhan lạc xứ; Ta nằm dài tự cho ta là người ở đời vua Hy Hoàng”.
Bức tường có đề câu ấy bị gió lớn làm hư hỏng, mùa hạ năm nào đó đã được sửa chữa.
Bài
I
Chốn
ẩn cư Trà Khê thấp thoáng cách xa nhà của người ta.
Ông
trời vì thi nhân mà xây cho một cái tổ cho họ Thiệu,
Buồn
vui lên lầu khó mà tự mình tiêu khiển.
Ngâm
vịnh đề thơ sẵn tường vách không hại gì.
Rảnh
rang thì chỉ lo khuyến khích con trai ở lại dưới bóng cây trong sân.
Già
rồi mà vẫn còn mang sách ra chốn đồng nội ngồi mãi bên hoa cỏ dại.
Bên
dưới song cửa mời anh xem bức ảnh nhỏ.
Có
thực là thân thế thuộc dòng dõi Hy Hoàng chăng?
Chú
thích: *(Hy Hoàng ý chỉ họ Phục Hy. Người xưa cho rằng vào thời đại Phục Hy,
dân chúng sống nhàn nhã tĩnh lặng, vì vậy những kẻ sĩ sống ẩn dật tự xưng là Hy
Hoàng Thượng Nhân)
Bài
II
Vườn
rau của họ Trịnh hoa bay khói tỏa trong lối mòn quanh co.
Phòng
ốc trống trải thâm sâu nằm dựa bên bờ suối đầy hoa lá.
Nhà
cửa được dựng lên nên bày yến tiệc chúc mừng do chủ nhân nghèo lo toan.
Gốc
mai lạnh kề bên mái tranh cũng là thê tử nhiều năm chăm sóc.
Bức
tường đề thơ đành tùy gió mưa xoay chuyển,
Lầu
các ngâm vịnh nhiều lần cảm nhận sao Đẩu sao Ngưu xuống thấp.
Sông
núi nổi lên tao loạn nên ông về ở ẩn.
Đúng
lúc bên song cửa thư trai sửa đổi câu thơ đã ghi vội.
Dịch
thơ:
Bài
I
Trà
Khê lẫn khuất lánh trần gian,
Trời
thương xây tổ tặng thi nhân.
Lầu
gác buồn vui nào kẻ thấu,
Vách
phên ngâm vịnh chẳng gì ngăn.
Rảnh
rang gối sách kề hoa dại,
Nhàn
nhã chăm con dưới bóng râm.
Mời
anh xem ảnh bên song cửa,
Dòng
dõi Hy Hoàng thực thế chăng?
Bài
II
Lối
nhỏ quanh co hoa khói bay,
Suối
reo phòng vắng lá hoa đầy,
Mai
lạnh mái nghiêng thê tử liệu
Chủ
nghèo nhà mới yến tiệc bày,
Gác
bút Đẩu Ngưu từng thăm viếng
Tường
thơ mưa gió mặc chuyển xoay,
Núi
sông tao loạn về ẩn dật,
Song
cửa câu thơ vội sửa sai.
3.《古薛旅中懷從弟叔君謙》
草濕潮鳴積雨天。
窮鄉客臥滯霜煙。
與君刮目多三日。
笑我沉吟又一年。
野鳥談詩猶伴俗,
寒雞驚夢不堪眠。
回頭相望相思處,
古渡仙橋地幾千。
Cổ-Tiết
lữ-trung hoài tùng-đệ Thúc quân Khiêm
Thảo
thấp triều minh tích-vũ thiên;
Cùng-hương
khách ngọa trệ sương-yên.
Dữ
quân quát-mục đa tam nhật;
Tiếu
ngã trầm-ngâm hựu nhất niên.
Dã-điểu
đàm thi do bạn tục;
Hàn-kê
kinh mộng bất kham miên.
Hồi
đầu tương-vọng tương-tư xứ;
Cổ-độ
tiên-kiều địa kỷ thiên.
Dịch
nghĩa:
Nhớ
em trai họ Thúc Khiêm trong lúc đi chơi Cổ Tiết.
Ngày
mưa lá cỏ ẩm ướt, con sông sóng vỗ xạc xào.
Vùng
quê hẻo lánh khách nằm trì trệ trong khói sương.
Cùng
em với tầm nhìn khác thêm ba ngày nữa (1)
Cười
ta âm thầm lặng lẽ lại hết một năm,
Luận
bàn về dã điểu vẫn làm bạn với người đời trong thi ca.(2)
Tiếng
gà lạnh lẽo làm kinh động giấc mộng không đành ngủ nghỉ. (3)
Quay
đầu cùng nhìn về nơi chốn nhớ thương ngày cũ.
Đất
Tiên Kiều xưa đã trải qua bao nhiêu ngàn năm rồi.
Chú
thích:
(1)
(Nguyễn Thúc Khiêm là em con nhà chú của cụ Bảng Mộng, cả hai đều có lòng yêu
nước, mỗi người một cách khác nhau, Thúc Khiêm tham gia hàng ngũ chống Pháp, cụ
Bảng Mộng tuy làm việc với chính phủ bảo hộ trong lãnh vực giáo dục nhưng âm thầm
dạy dỗ, khơi dậy tinh thần yêu nước của học trò, theo một bài viết của học trò
cụ, khi cụ hay tin Nguyễn Thúc Khiêm bị bắt, cụ đã nhờ người can thiệp xin
phóng thích Thúc Khiêm, nhưng Thúc Khiêm đã tự sát trong tù, ở đây nói “tầm
nhìn khác” ám chỉ hai đường lối yêu nước của hai anh em khác nhau)
(2)
(Dã điểu: Theo tài liệu về các loài chim hoang dã thì chim én là một trong số
đó, loài chim én hay làm tổ trên lường nhà dân ở thôn quê, trong thi ca cổ từ
Trung Hoa đến VN vẫn thường xuất hiện hình ảnh chim én.
Tác giả là một nhà nho yêu nước nên ở đây có lẽ
muốn ám chỉ tình trạng đất nước trong buổi phân hóa thời thực dân Pháp cai trị,
làng mạc tiêu điều xơ xác, chim én vào làm tổ trong các nhà hoang. Trong bài
thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích từng nhắc đến chim én từng làm tổ trong hai nhà
danh gia vọng tộc Vương Đạo, Tạ An, khi hai nhà đó sa cơ thất thế thì đàn én ấy
phải bay vào nhà bách tính bình thường).
(3)(Tiếng
gà gáy trong lúc trời còn tối tăm thinh lặng làm lạnh buốt người nghe, có lẽ
tác giả ám chỉ tiếng gà làm kinh động ước mơ buổi bình minh của đất nước làm
cho kẻ sĩ phu giật mình không dám ngủ.)
4.《題壁》
梓宅蓮塘對結籬。
紅薔薇間白薔薇。
閏年春晚花仍發,
靜院香深蝶未知。
舊圃不裁新草木,
家風惟認此丘池。
明窗吞得湖中月,
全局山河片影微。
Đề
bích
Tử-trạch
liên-đường đối kết ly;
Hồng
tường-vi gián bạch tường-vi.
Nhuận-niên
xuân vãn hoa nhưng phát;
Tĩnh-viện
hương thâm điệp vị tri.
Cựu-phố
bất tài tân thảo mộc;
Gia-phong
duy nhận thử khâu trì.
Minh-song
thôn đắc hồ-trung nguyệt;
Toàn
cục sơn-hà phiến ảnh vi.
Dịch
nghĩa:
Đề
trên vách
Nhà
gỗ tử, ao sen nhìn ra bờ giậu.
Hoa
tường vi hồng giữa hoa tường vi trắng,
Năm
nhuận đã cuối mùa xuân nhưng hoa vẫn nở,
Phòng
ốc tĩnh lặng tỏa hương ngào ngạt nhưng bướm chưa biết,
Vườn
rau xưa không trồng thêm cây cỏ mới mẻ nào,
Nếp
nhà chỉ có những gò đống, ao chuôm đó.
Ô
cửa sáng ôm trọn ánh trăng trong hồ.
Một
cõi núi sông là một bức ảnh tinh tế.
Dịch
thơ
Bờ
giậu ao sen nhà gỗ tử.
Tường
vi hồng trắng gió lung lay,
Năm
nhuận xuân tàn hoa vẫn nở,
Phòng
tiêu hương ngát bướm chưa hay.
Gò
đống nếp xưa là như thế.
Cỏ
cây vườn cũ chẳng đổi thay.
Ô
cửa ao hồ lồng bóng nguyệt
Non
sông như bức ảnh rõ bày.
5.《農江懷古》
奔濤南下各西東。
聚散千年總不同。
鎮守營屯餘岸闊,
繁華市井半江空。
英雄心事三支水,
故國關河百戰鋒。
遮莫推移無底定,
孤蓬泛泛一漁翁。
Nông-giang
hoài cổ
Bôn
đào nam há các tây đông;
Tụ
tán thiên niên tổng bất đồng.
Trấn-thủ
dinh-đồn dư ngạn khoát;
Phồn-hoa
thị-tỉnh bán giang không.
Anh-hùng
tâm-sự tam chi thủy;
Cố-quốc
quan-hà bách chiến phong.
Già
mạc thôi di vô để định;
Cô-bồng
phiếm phiếm nhất ngư-ông.
Dịch
nghĩa:
Nhớ
Nông Giang xưa
Vì
tránh con sóng dữ mà phải xuôi nam đi khắp đông tây. (Sóng dữ ám chỉ thời thế
nhiễu nhương)
Chuyện
tan hợp ngàn năm nay đều không giống nhau.
Quân
doanh gìn giữ biên cương giờ chỉ còn lại bờ bãi mênh mông.
Phố
xá phồn thịnh giờ là phân nửa lòng sông trống trải.
Tấc
lòng của người anh hùng trải khắp miền ba nhánh sông .
Biên
cương sông núi cũ dựa vào mũi kiếm đã qua hằng trăm trận chiến.
Mặc
cho mọi sự biến hóa thay đổi không dừng.
Ngọn
cỏ bồng vẫn chơi vơi quanh quẩn bên thuyền một lão chài. (Ở đây chữ bồng 蓬 có
nghĩa là ngọn cỏ bồng nên chúng tôi dịch theo nguyên tác, không biết nhà in
ngày xưa có in sai chăng, lẽ ra là bồng 篷 mới
có nghĩa phiếm chỉ thuyền, cô bồng 孤篷: một
chiếc thuyền với ngư ông thì hợp lý hơn)
Dịch
thơ:
Tránh
loạn xuôi Nam khắp Tây Đông,
Tan
hợp ngàn năm vốn chẳng đồng.
Quân
doanh thuở trước nay bờ cỏ,
Phố
xá năm xưa hiện bến sông.
Mũi
kiếm biên cương bao trận mạc,
Anh
hùng tâm sự mấy dòng sông.
Mặc
cho biến hóa không ngừng nghỉ,
Thanh
thản ngư ông ngọn cỏ bồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét